Category: LX Chuyển Dịch


Ngoài những công trình bí ẩn được làm từ đá, còn có những dấu hiệu được tiết lộ về những cuộc phẫu thuật rất tinh vi tân tiến đã được thực hiện trong quá khứ xa xôi. Đã có những phát hiện về nhiều hộp sọ đã bị khoan trám (trepanned) từ thời đồ đá. Khoan trám là một quá trình phẫu thuật rất tinh xảo và khó khăn. Richard Mooney giải thích quá trình này trong cuốn sách “Thuộc Địa Trái Đất” (Colony Earth) của ông:

“Khoan trám ngày nay là một quá trình phẫu thuật lấy đi một phần của lớp xương sọ, với mục đích làm giảm nhẹ áp lực tạo ra bởi một khối u hay một khối máu đông, hoặc loại bỏ những mảnh xương vụn do những vết nứt gãy xương sọ gây ra, và vùng trống đó sẽ được đóng lại bởi một miếng xương khác. Phẫu thuật này không đơn giản chút nào và nó đòi hỏi một trình độ cực cao để thực hiện. Thật khó mà tin được là người đồ đá, nếu họ thật sự là vậy, đã được cho là cực kì hoang dị, đã có thể tiến hành được những cuộc giải phẫu với các kĩ thuật thô sơ, những con dao bằng đá, không có thuốc mê, hay không hề có ý niệm gì về an toàn vệ sinh.”

Bằng chứng cho thấy rằng những người được giải phẫu vẫn tiếp tục sống nhiều năm sau đó. Điều này thật đáng ngạc nhiên vì nếu so ra với trình độ y tế thời gian gần đây thì những bệnh nhân trải qua quá trình khoan trám tương tự có cơ hội sống sót rất thấp vì những lý do như nhiễm trùng, hay nhiễm độc, và nhiều sự phức tạp khác liên quan tới phẫu thuật hộp sọ.

Vậy mà có những bằng chứng khác về khoan trám cổ xưa xuất hiện tại Liên Xô Cũ, những cuộc khám nghiệm về các hộp sọ được khai quật tại Ishtikunuy gần Hồ Sevan tại Armenia cho thấy một kĩ thuật rất cao tương tự về phẫu thuật hộp sọ đã được thực hiện hơn 4000 năm trước! Một bệnh nhân đã bị chấn thương sọ não rất trầm trọng và người bác sĩ giải phẫu đã khéo léo đắp vào chỗ nứt bằng một mảnh xương thú đã được đẽo gọt vừa khít tinh vi. Hộp sọ cho thấy những dấu hiệu rõ rệt những tế bào xương của bệnh nhân đã phát triển trở lại và bao bọc lấy mảnh xương trám, điều này giải thích một cách đầy đủ rằng người đó đã sống sót được một thời gian khá lâu sau cuộc giải phẫu.

Một hộp sọ tương tự được tìm thấy tiết lộ về một người phụ nữ cũng đã được giải phẫu để loại bỏ một vật thể rộng 2.5 cm đã đập thủng sọ cô ta, xuyên thấu trực tiếp vào não, sự việc đã được một nhà giải phẫu tài tình cắt quanh vật thể này và đã lấy ra được những mảnh xương vỡ vụn và sau đó đã đóng lại vết thương sử dụng một miếng xương thú. Những ca giải phẫu loại này có thể nói là cực kì phức tạp vì nó có liên quan tới giải phẫu não, chưa hết, sự phát triển của xương sau cuộc giải phẫu chứng tỏ rằng bệnh nhân thời tiền sử này đã vẫn có thể sống tiếp tục nhiều năm sau đó.

_____________

LX chuyển dịch

Nguồn: Lịch sử cấm kị của trái đất – Maxwell Igan


Những bậc thầy huyền học và tâm linh từ xa xưa đã biết rằng cơ thể chúng ta được lập trình bởi ngôn ngữ, từ ngữ, và tư tưởng. Điều này đã được khoa học chứng minh và giải thích.

DNA con người là một mạng lưới internet sinh học, nó cao cấp tinh vi và phức tạp hơn mạng lưới internet thông tin toàn cầu chúng ta đang sử dụng rất nhiều. Nghiên cứu mới nhất từ các khoa học gia người Nga đã trực tiếp hoặc gián tiếp giải thích các hiện tượng như trực giác, siêu giác, chữa bệnh trực tiếp, chữa bệnh từ xa, tự chữa bệnh, ám thị, hào quang, điều khiển thời tiết và nhiều hiện tượng khác.

Thêm vào đó, có những bằng chứng về một dạng thuốc men có thể ảnh hưởng và lập trình DNA bằng từ ngữ và tần số mà không phải cắt bỏ đoạn genes và thay thế nó. Chỉ có 10% DNA của chúng ta được sử dụng để tạo ra các protein. Những nhà nghiên cứu về DNA phương tây chỉ chú trọng phân tích, phân loại nhóm 10% này. 90% còn lại được họ cho là “DNA rác” (junk DNA).

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu Nga chắc chắn rằng thiên nhiên thật không ngu ngốc, kết hợp với nhiều nhà ngôn ngữ học, và di truyền học họ đã đi sâu vào để khám phá 90% “DNA rác” đó. Những phát hiện, kết quả và kết luận của họ đơn giản có thể nói là một cuộc cách mạng!

Dựa trên những phát hiện này, DNA không những chỉ chịu trách nhiệm về sự hình thành nên cơ thể của chúng ta, mà còn hoạt động như một kho chứa dữ liệu và một trạm liên lạc dữ liệu thông tin. Các nhà ngôn ngữ học người Nga đã tìm thấy trong bộ mã di truyền – đặc biệt là trong nhóm “90% DNA vô dụng” – tuân theo một luật lệ giống như tất cả các hệ thống ngôn ngữ của con người.

Để có được kết quả này họ đã so sánh các cấu trúc ngôn từ cú pháp, ý nghĩa, và những quy ước căn bản trong ngữ pháp. Họ tìm ra rằng các chất kiềm trong DNA cũng tuân theo một dạng ngữ pháp thông thường và cũng có những quy định giống như ngôn ngữ. Vì thế, ngôn ngữ đã không xuất hiện một cách ngẫu nhiên, nhưng là một sự phản ảnh, đối chiếu từ DNA vốn có trong con người.

Nhà phân sinh và lý sinh học người Nga Pjotr Garjajev và đồng nghiệp của ông cũng đã khảo sát về những hành vi rung động của DNA. Có thể tóm gọn trong một dòng: “Nhiễm sắc thể hoạt động y như một cỗ máy tính ảnh nổi (holographic) sử dụng phóng xạ laser DNA nội sinh.” Điều này có nghĩa là chúng có khả năng biến đổi một số chiều mẫu tần số (âm thanh) thành một thứ như tia laser, nó sẽ ảnh hưởng đến tần số DNA và như thế thông tin di truyền của chính nó.
Vì cấu trúc căn bản của những cặp kiềm DNA và của ngôn ngữ tương đồng với nhau, giải mã DNA là không cần thiết. Chúng ta chỉ cần đơn giản dùng từ ngữ và lời nói trong ngôn ngữ! Điều này cũng đã được chứng minh bằng thí nghiệm!

DNA sống sẽ luôn luôn phản ứng với những tia laser đã được tinh chỉnh bởi ngôn ngữ và ngay cả các tần sóng radio, nếu những tần số thích hợp (âm thanh) được sử dụng. Điều này cuối cùng cũng đã được giải thích một cách khoa học rằng tại sao ám thị, thôi miên và những kĩ thuật tương tự có thể có được những hiệu ứng mạnh mẽ lên con người. Nó hoàn toàn bình thường và tự nhiên vì DNA của chúng ta phản ứng với ngôn ngữ.

Trong khi các nhà nghiên cứu tây phương phải cắt bỏ những đoạn genes từ chuỗi DNA và chèn chúng vào những nơi khác, người Nga đã hăng hái tạo ra được những thiết bị có thể gây ảnh hưởng lên quá trình trao đổi chất tế bào qua những tần số radio và ánh sáng đã được tinh chỉnh và sửa chửa được các lỗi di truyền.

Họ còn thâu lại được những chiều mẫu thông tin của một DNA đặc thù và chuyển dẫn nó vào một DNA khác, dẫn đến việc tái lập trình toàn thể bộ gene của tế bào. Họ đã thực hiện thành công quá trình biến đổi phôi thai ếch thành phôi thai kì nhông đơn giản chỉ bằng cách chuyển dẫn chiều mẫu thông tin DNA! Bằng cách này toàn bộ thông tin đã được chuyển dẫn mà không để lại một hiệu ứng phụ hay mất cân bằng nào so với cách thức cắt dán DNA.

Điều này dẫn đến một cuộc cách mạng khó tin có thể thay đổi thế giới: đơn giản chỉ bằng cách áp dụng những rung động lực, tần số âm thanh và ngôn ngữ thay vì phương pháp cắt dán thô sơ.

Thí nghiệm này hướng đến một sức mạnh lớn lao của ngành sóng di truyền, nó rõ ràng là có ảnh hưởng nhiều hơn lên thông tin của sinh vật hơn là những quá trình hóa sinh của các dãy kiềm.

Một bài học có thể được rút ra từ dữ kiện này là nếu ta có thể thay đổi được tần số của mình ta có thể thay đổi được DNA. Tâm thức cá nhân nào càng phát triển càng ít phải cần đến bất kì một công cụ máy móc nào như trong các thí nghiệm. Một người có thể tự mình đạt được những kết quả như ý. Tất nhiên cái tần số phải đúng. Và đây là lý do tại sao cùng một năng tần mà không thể ảnh hưởng đồng nhất lên tất cả mọi người. Cá nhân đó phải làm việc với những quy trình biến triển nội tại để thiết lập một sự liên thông ý thức trực tiếp với DNA.

Tâm thức cá nhân nào càng phát triển càng ít phải cần đến bất kì một công cụ máy móc nào như trong các thí nghiệm. Một người có thể tự mình đạt được những kết quả như ý. Tất nhiên cái tần số phải đúng. Và đây là lý do tại sao cùng một năng tần mà không thể ảnh hưởng đồng nhất lên tất cả mọi người. Cá nhân đó phải làm việc với những quy trình biến triển nội tại để thiết lập một sự liên thức (hyper-communication) trực tiếp với DNA. Nó chưa kết thúc ở đây.

Các nhà khoa học Nga cũng đã khám phá ra rằng DNA của chúng ta có thể tạo ra được những định dạng rối loạn trong chân không, sản sinh ra những lỗ sâu từ năng (sâu trong ‘con sâu’) (magnetized wormholes). Lỗ Sâu tương đồng vi mô với những cái được gọi là cầu nối Einstein-Rosen liên quan đến Lỗ Đen (là cái được để lại bởi những ngôi sao đã chết)

Những kết nối kênh dẫn giữa các vùng hoàn toàn khác biệt trong vũ trụ mà qua nó thông tin có thể được dịch chuyển vượt ngoài không-thời. DNA thu hút từng miếng nhỏ thông tin và chuyền chúng đến ý thức của chúng ta. Quy trình siêu liên thức này (thần giao cách cảm, nhập đồng) có hiệu quả nhất khi ở trong tình trạng thư giãn.

Lo lắng, trầm cảm hay một tâm trí siêu năng động ngăn ngừa quá trình siêu liên thức hoặc thông tin sẽ hoàn toàn bị bóp méo và vô dụng. Trong thiên nhiên, siêu liên thức đã được áp dụng thành công trong hàng triệu năm. Cơ cấu tổ chức nhịp nhàng trong đời sống côn trùng chứng minh điều này một cách sâu sắc. Con người hiện đại chỉ biết đến nó trên một bình diện tinh tế gọi là trực giác. Nhưng chúng ta, nếu biết cách, có thể tìm lại được toàn bộ lợi ích của nó.

Một ví dụ từ thiên nhiên, khi một con kiến cái chúa rời khỏi thuộc địa của nó, những con kiến thợ còn lại vẫn tiếp tục làm việc nhiệt thành theo kế hoạch. Tuy nhiên, nếu kiến chúa chết, mọi công việc trong tổ kiến lập tức ngừng hoạt động. Những con kiến sẽ không biết phải làm gì nữa. Rõ ràng rằng, kiến chúa có khả năng phát truyền cái kế hoạch hoạt động, ngay cả khi nó ở một nơi cách xa, đến miền thức tập thể của đàn kiến. Nó có thể ở xa thật xa không cần biết, miễn là nó còn sống.

Ở loài người, siêu liên thức thường được bắt gặp khi một người bỗng nhiên đạt được kết nối với thông tin nằm ngoài nền kiến thức của họ. Sự siêu liên thức này được trải nghiệm dưới hình thức như những nguồn cảm hứng hay trực giác, hay trong một buổi nhập đồng. Nhà soạn nhạc người Ý Giuseppe Tartini, là một ví dụ, một đêm mơ thấy rằng có một con quỉ (devil) ngồi kế bên giường ngủ của ông và chơi một bản nhạc violin. Sáng hôm sau Tartini đã viết lại chính xác toàn bộ bản nhạc đó từ kí ức. Ông đặt tên bản nhạc đó là Devil’s Trill Sonata.

Trong quyển sách Vernetzte Intelligenz của Grazyna Gosar và Franz Bludorf, họ đã giải thích chính xác và rõ ràng những mối liên hệ này. Tác giả cũng đã trích dẫn nhiều nguồn chỉ ra rằng thời xa xưa loài người cũng đã từng sống rất giống loài vật: có liên kết chặt chẽ với miền thức chung của cộng đồng và vì thế hành động theo nhóm. Để có thể phát triển và trải nghiệm tính cách cá nhân, tuy nhiên, loài người phải quên đi khả năng siêu liên thức gần như là hoàn toàn.

Giờ đây tâm thức cá nhân trong chúng ta đã tương đối ổn định, chúng ta có thể hình thành một đạng tâm thức tập thể mới – cái mà trong đó chúng ta có được kết nối đến tất cả thông tin qua DNA của chúng ta mà không bị buộc phải hay kiểm soát về việc phải làm gì với thông tin đó. Ngày nay chúng ta biết rằng cũng như khi chúng ta sử dụng internet, DNA của chúng ta cũng có thể đưa dữ liệu vào mạng lưới, hay cũng có thể trích dữ liệu ra từ mạng lưới. Chữa bệnh từ xa, thần giao cách cảm hay cảm nhận từ xa về tình trạng của một người khác vì thế đã có thể được giải thích. Nhiều con vật biết được khi nào chủ của nó trở về nhà. Vấn đề này cũng có thể được lý giải qua khái niệm về tâm thức tập thể và siêu liên thức.

Bất kì miền thức tập thể nào đều không thể được sử dụng mà không có một tâm thức cá thể; nếu không chúng ta sẽ trở ngược về bản năng bầy đàn sơ khai, cái có thể dễ dàng bị điều khiển. Siêu liên thức trong thiên niên kỉ mới có một ý nghĩa hoàn toàn khác.

Các nhà nghiên cứu nghĩ rằng nếu con người với ý thức cá nhân đầy đủ sẽ có lại được cái ý thức tập thể, họ sẽ có được những năng lực siêu thường để sáng tạo, sửa đổi và định hình sự vật trên trái đất. Và loài người một cách tập thể đang đi đến cái miền thức tập thể mới này.

50% học sinh cảm thấy khó khăn khi đi học, vì cái hệ thống gom tất cả học sinh lại và đòi hỏi điều chỉnh. Nhưng ý thức cá nhân của trẻ em ngày nay quá mạnh nên chúng từ chối sự điều chỉnh này và chống lại việc buông bỏ những đặc tính cá nhân của chúng bằng những cách đa đạng nhất.

Cùng lúc đó càng ngày càng có nhiều những đứa trẻ thấu thần (clairvoyant) được sinh ra. Có cái gì đó trong những đứa trẻ này đang vươn tới miền tâm thức tập thể mới này hơn, và nó không thể nào có thể bị kiềm hãm nữa.

Như một quy luật, thời tiết là một ví dụ, khó có thể nào bị tác động bởi một cá nhân duy nhất. Nhưng nó có thể được tác động bởi miền thức tập thể (điều này không có gì mới đối với một số bộ tộc bản địa). Thời tiết bị tác động mạnh mẽ với các tần số cộng hưởng của Trái Đất (tần số Schumann). Nhưng những tần số đó cũng có thể được não bộ chúng ta tạo ra, và khi có nhiều người cùng đồng hưởng một ý nghĩ hay khi có những cá nhân (những bậc thầy tâm linh, ví dụ) tập trung ý nghĩ của họ một cách mạnh mẽ như một tia laser, thật không có gì ngạc nghiên khi họ cũng có thể tác động lên thời tiết.

Nền văn minh hiện đại ngày nay nếu tập trung phát triển miền thức tập thể sẽ không gặp phải những vấn đề về môi trường hay tình trạng thiếu hụt năng lượng: vì nếu nó sử dụng được nguồn năng lực tinh thần này như một cộng đồng hợp nhất, nó sẽ kiểm soát được toàn bộ nguồn năng lượng của hành tinh như một hệ quả tất yếu.

Khi có một số lượng lớn người biết kết hiệp với những ý nghĩ cao thượng ví dụ như khi thiền quán về hòa bình – những khả năng bạo lực sẽ tan biến.

Một cách rõ ràng, DNA đồng thời cũng là một chất siêu dẫn (superconductor) hữu cơ và có thể hoạt động ở một nhiệt độ cơ thể bình thường, trái với chất siêu dẫn nhân tạo, nó đòi hỏi một nhiệt độ cực thấp -250 °C đến -135 °C để có thể hoạt động. Thêm vào đó, mọi chất siêu dẫn đều có thể chứa ánh sáng, và vì thế thông tin. Điều này lý giải như thế nào mà DNA có thể chứa thông tin.

Còn có một hiện tượng khác liên quan đến DNA và các lỗ sâu. Bình thường thì các lỗ sâu cực nhỏ rất không ổn định và chỉ tồn tại được trong vài sát na. Dưới một số điều kiện ổn định lỗ sâu có thể tự kết cấu, và sau đó hình thành nên những miền chân không (vacuum domains) đặc thù trong đó, ví dụ như, trọng lực có thể biến đổi thành điện năng. Các miền chân không là những quả cầu khí được ion hóa tự sáng (self-radiant balls of ionized gas) chứa đựng một mức năng lượng đáng kể. Có nhiều vùng trong nước Nga nơi mà những quả cầu phát sáng này xuất hiện rất thường xuyên.

Để tìm hiểu về sự mập mờ này những người Nga đã tiến hành nhiều chương trình nghiên cứu quy mô cuối cùng đã dẫn đến những khám phá kể trên. Nhiều người biết rằng các miền chân không như những quả cầu sáng loáng trên bầu trời. Qua bài viết này chúng ta đơn giản là đã bước được một bước lớn để thấu hiểu thực tại.

===============

LX chuyển dịch
http://www.fosar-bludorf.com/index_eng.htm
http://www.papimi.gr/rusDNAdisc.htm

Chương 2

 

Những câu đố của quá khứ

 

Mọi thứ đã bắt đầu khi tôi còn là một đứa trẻ, tôi đã nhìn thấy được một bức ảnh về Kim Tự Tháp. Lúc đó người ta nói với tôi là không ai thực sự biết nó đã được xây lên như thế nào, từ giây phút đó tôi đã bắt đầu bị cuốn hút bởi cái quá khứ bí ẩn của chúng ta.

Từ lúc đó, tất cả các mối quan tâm về truyện tranh của tôi đã được dẹp bỏ, bây giờ tôi bắt đầu lục lọi cuốn bách khoa toàn thư của mẹ tôi. Dù tôi không thể hiểu được phần lớn văn bản, nhưng những hình ảnh về khủng long và các cấu trúc cự thạch cổ xưa và huyền bí đã hoàn toàn thấm nhuần vào người tôi. Họ đến từ đâu? Tôi thắc mắc. Nhân loại có thực sự có một lịch sử chưa được biết đã mất tích hoặc lãng quên? Có thể thực sự có được một nền văn minh tối tân từ thời xa xưa, trước cái lịch sử đã được lưu lại của chúng ta? Những câu hỏi và những cuộc tranh luận về vấn đề này đã nổ ra trong nhiều năm. Khi được hỏi, hầu hết các học giả sẽ cho bạn biết rằng đó là một ý kiến hay, nhưng cho cùng thì huyền ảo, và thật sự là không có bằng chứng nào cho thấy rằng có một nền văn minh đã từng thực sự tồn tại. Tuy nhiên, nhiều người khác sẽ lập luận rằng thật sự là có một khối lượng đáng kể bằng chứng tồn tại mà chỉ đơn giản là không thể được giải thích qua loa. Vậy thì, sự thật là gì? Chúng ta đang nói tới những bằng chứng nào? Một mớ  các bức vẽ lạ thường trong hang động và các lý thuyết bí truyền bởi những con người kì lạ, hay là có một cái gì đó rõ ràng hơn?

Hoàn toàn thành thật mà nói, bằng chứng nhân chủng học, dù có thuyết phục thế nào, cũng luôn tùy vào tình huống, trong khi truyền thuyết và huyền thoại không chứng cớ mới là đáng ngờ và một cách tự nhiên nó dẫn tới những diễn giải cá nhân, vì vậy ta cần phải tìm kiếm một sự xác thực xa hơn. Khi ta làm thế, ta thấy rằng thực tế là có một khối lượng lớn bằng chứng vật chất rõ rệt, ngày càng nhiều hơn, và nó đang đi một chặng đường dài dẫn tới việc loại bỏ những gì ta đã được dẫn dắt để tin. Những bằng chứng này cho chúng ta biết rằng hoặc là lịch sử chúng ta được dạy về Trái Đất là sai, hoặc là lịch sử chúng ta được dạy về sự phát triển của nhân loại là sai – hoặc là cả hai.

Thực tế này đang nhanh chóng trở thành quá lớn để có thể từ chối, và ngày càng có nhiều bằng chứng đang được tìm thấy thường xuyên hơn bao giờ hết để củng cố cho cái kết luận. Nên cái kết luận rõ ràng ta đang phải đối mặt với ở đây là cộng đồng hàn lâm hoặc là hoàn toàn ngu ngốc (điều đó là đáng nghi ngờ) hoặc là chỉ đơn giản không nói cho ta biết sự thật! Có lẽ họ đang chờ đợi đúng thời điểm …

Nhưng trước khi chúng ta cố gắng tìm xem câu trả lời cho câu đố của chúng ta nằm ở đâu, chúng ta hãy điều tra xem các bằng chứng về một nền văn minh cổ đại với công nghệ cao cấp thực sự có tồn tại đó là gì, dưới hình thức nào, và liệu chúng ta sẽ được trình bày bởi bất cứ điều gì thực sự không thể giải thích? Và như bạn sẽ thấy, các bằng chứng cho thấy toàn bộ lịch sử của chúng ta là sai thực sự khá là bao la, dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng để bắt đầu, chúng ta có thể kiểm tra một số Kì Vật (Ooparts – out ouf place artifacts) trêu ngươi đã đề cập trong chương trước, và theo lịch sử chính thống của chúng ta chúng ta, những vật thể này thực sự là cực kỳ Kì Lạ!

Một vài lời cũng phải được nói ở đây về các phương pháp được sử dụng để định tuổi nhiều hiện vật này. Trong những hiện vật có chứa vật chất hữu cơ, phương pháp giám niên Cacbon Phóng xạ (Radiocarbon dating) được sử dụng. Trong khi những hiện vật vô cơ khác thì được định tuổi bằng cách giám niên các lớp địa tầng nơi chúng được tìm thấy, và các phương pháp tiêu chuẩn địa chất khác. Tính chính xác của cả hai kỹ thuật này có thể xê xích tùy vào các sự kiện trong quá khứ có thể đã xảy ra tại địa điểm được thẩm định, điều này sẽ được thảo luận sau, nhưng bây giờ, hãy xem xét một số Bí Ẩn.

 

============

 

Nhóm Học Giả Đường Phố chuyển dịch

Bản đồ Piri Reis, 1513

Năm 1929, một bản đồ đáng kinh ngạc được phát hiện tại Viện Lưu Trữ Hoàng Gia (Imperial Archives) tại Constantinople, nó đã nằm ở đó, hầu như chưa từng được xem xét, trong nhiều năm. Bản đồ (Hình 1), đã được vẽ vào năm 1513 bởi một đô đốc Thổ Nhĩ Kỳ tên là Piri Reis, chỉ ra Bắc Mỹ, Nam Mỹ, quốc gia Greenland và Nam Cực. Tuy nhiên điều khó hiểu về tấm bản đồ này là Nam Cực đã chưa được khám phá vào năm 1513. Nam Cực chưa được khám phá trước năm 1820 và Châu Mỹ đã chỉ được phát hiện vào năm 1492, 21 năm trước khi bản đồ được vẽ, nhưng nó vẫn được đo vẽ khá chính xác. Đáng lưu ý là, bản đồ cũng mô tả một số vùng đất với kinh độ chính xác của nó mặc dù chính vấn đề kinh độ cũng đã chưa giải quyết đến cho đến cuối những năm 1700.

Reis là một Đô Đốc người Thổ Nhĩ Kỳ nổi tiếng của thế kỷ 16. Ông có một niềm đam mê với các bản đồ, Ông say mê thuật họa đồ (cartography) và là một thủy thủ đáng kính giàu kinh nghiệm. Thời đó, ông được coi là một chuyên gia về tất cả các miền đất Địa Trung Hải và những bờ biển, được nhiều ưu ai cao quý trong tòa án Thổ Nhĩ Kỳ. Tư cách cao trọng như vậy cho phép ông được hưởng đặc quyền truy cập vào Thư viện Hoàng Gia tại Constantinople và ông đã dành nhiều thời gian rảnh rỗi của mình ở đó. Trong ghi chép của ông, Reis nói rằng ông đã vẽ bản đồ của mình dựa trên một số bản đồ lâu đời hơn nhiều ông đã tìm thấy trong thư viện, trong đó có một cái đã được thuật lại là Columbus đã xem trước khi chuyến đi của mình đến châu Mỹ.

Tấm bản đồ này trong nghi vấn được cho là đã bị lấy đi từ người Tây Ban Nha trong một đính hôn hải quân, và sau đó được cho đô đốc từ một tù nhân người Tây Ban Nha, tù nhân này rõ ràng đã từng là người có mặt trong  ba của chuyến hải trình khám phá Thế Giới Mới của Columbus! Nhiều học giả đã thực sự nghi ngờ rằng Columbus đã sở hữu tấm bản đồ và đã biết về sự tồn tại của Chây Mỹ trước khi bắt tay vào hành trình khám phá nổi tiếng của mình. Reis cũng đã viết một cuốn sách rất nổi tiếng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ trên thuyền tựa đề là ‘Kitababi Bahriye’, trong đó ông đưa ra mô tả chi tiết và chính xác của các đường bờ biển, bến cảng, vùng, vịnh, dòng chảy, vùng nước nông và eo biển Địa Trung Hải và Biển Aegean. Ông đã bị xử trảm bởi Tòa án Thổ Nhĩ Kỳ trong năm 1554 hoặc 1555 vì những lý do hiện nay chưa biết.

Trong trường hợp bạn không nhìn thấy, đó là phần trên của châu Phi phía trên bên phải bản đồ và mũi của Nam Mỹ vươn ra từ phía bên trái của bản đồ, chạy qua vịnh Mexico và lên đến Bắc Mỹ. Mũi của Nam Cực có thể được nhìn thấy nhô lên trên góc dưới bên phải. Một điểm thú vị về tấm bản đồ này là cách bố trí kì lạ của lục địa Nam Mỹ trông như thể nó  bị kéo dài ra. Tuy nhiên, nếu nhìn Trái Đất từ không gian, một cách chính xác nó sẽ cho ra góc nhìn này. Buồn cười là…

============================

nhóm Học Giả Đường Phố chuyển dịch

Nguồn: Lịch Sử Cấm Kị của Trái Đất – Maxwell Igan

 

Bản đồ Oronteus Finaeus  đã được tìm thấy vào năm 1960 bởi Charles Hapgood và nó cũng vậy, rõ ràng cho thấy lục địa Nam Cực cùng với những khung nét chính xác của các con sông ở Nam cực được bao phủ bởi các dòng sông băng rất dày. Bản đồ này được tìm thấy trong Thư viện Quốc hội ở Thủ đô Washington DC, Hoa Kỳ, nơi nó đã nằm đó, không được tra cứu trong  rất nhiều năm. Trong bản đồ, lục địa và bờ biển được cho thấy hoàn toàn không có băng tuyết, và như tấm bản đồ Piri Reis, nó cũng cho thấy một mô tả chính xác về biển Ross mà ngày nay nó hoàn toàn bị ẩn bên dưới một tảng băng nổi dày hàng trăm mét.

Các nghiên cứu mẫu lõi lấy từ các tảng băng Nam Cực đã rõ ràng cũng tiết lộ có rất nhiều lớp địa tầng trong băng cho thấy khu vực này đã thực sự trải qua nhiều thời kỳ thay đổi môi trường đáng kể. Một số đọng trầm tích đã được tìm thấy trong các mẫu nước biển đã chảy vào khu vực và thậm chí chúng còn có thể được định tuổi. Các xét nghiệm cho thấy là các trầm tích được lắng đọng vào khoảng 4000 năm trước, điều đó chỉ ra rằng dòng biển Ross đã từng có sự lưu thông, không băng tuyết, vào thời điểm đó để cho sự lắng đọng có thể xảy ra.

[LX chuyển dịch]

Nguồn: Lịch Sử Cấm Kị của Trái Đất – Maxwell Igan

Lịch Sử Cấm Kị của Trái Đất


Maxwell Igan

Nhóm Dịch Thuật ‘Học Giả Đường Phố’

Chuyển Dịch

Lời Ngỏ

Mục tiêu chính của cuốn sách này là để cung cấp thông tin cho mọi người, nhiều điều trong số đó đôi khi đã bị ẩn giấu khá kín. Tôi chân thành hi vọng rằng tất cả những người đọc tác phẩm này sẽ tìm được cảm hứng với những vấn đề còn bỏ ngỏ; và tìm ra câu trả lời cho chúng, cũng như những sự thật và khám phá mới lạ khác cho bản thân họ. Khi tôi bắt đầu viết cuốn sách này, mong muốn của tôi là tổng hợp nhiều chủ đề khác nhau, và một số lượng lớn các thông tin “khó tìm” vào trong cùng một tác phẩm đồ sộ. Tuy nhiên, sau vài tháng làm việc, chữ ‘đồ sộ’ đã bắt đầu mang một ý nghĩa mới đối với tôi, và khối lượng nội dung và bản chất đan xen của văn bản đã trở nên quá cồng kềnh để có thể bằng bất kỳ cách nào đó có thể quản lý được trong một cuốn sách duy nhất, và mặc dù số lượng thông tin trong đây đã khá lớn, tôi đã buộc phải bỏ bớt một số chương trong sách.

Do bản chất chi tiết của các chủ đề mà tôi đã hy sinh trong “quá trình thái mỏng” này, mỗi chương đã được thái mỏng vẫn còn phải được chia thành nhiều phần nhỏ hơn nữa, sau đó sẽ mở rộng thành một số lượng văn bản khác nhau để được phát hành sau này.

Nguồn chính yếu của các trích dẫn Thánh Kinh (Cơ Đốc Giáo) trong cuốn sách này là phiên bản gốc tiếng Do Thái, cuốn Cựu Ước từ Thánh Kinh Jerusalem (Jerusalem Bible) 1992. Điều này là vì khi đã nói và làm cho cùng thì, tất cả phiên bản khác nhau của Thánh Kinh chỉ đơn giản là các bản dịch và diễn giải của các cá nhân khác nhau và tận gốc rễ nó là những gì được viết trong phiên bản gốc tiếng Do Thái, đó mới chính là giá trị thật sự. Tất cả trích dẫn Thánh King bằng tiếng Anh được lấy từ phiên bản King James (King James Version) (Bản Việt dịch này có thể sẽ dùng bản dịch của Thánh Kinh Công Giáo Việt Nam). Một danh mục đầy đủ các nguồn khác cũng được cung cấp tại phần cuối cuốn sách.

Tôi không yêu cầu hoặc mong đợi bất cứ ai tin tưởng một cách mù quáng vào những gì được viết trong sách mà không tự mình tra cứu tất cả các bằng chứng, và sự thật là tôi rất mong bạn làm như vậy. Trong khi đó tuy nhiên, tôi hy vọng bạn tìm được trong cuốn sách này những thông tin bổ ích và thú vị, và tôi cảm ơn bạn đã dành thời gian để đọc nó. Hãy nhớ rằng, sự thật luôn ở ngoài kia, một nơi nào đó, và đôi khi, ngay trước mặt chúng ta, nếu chúng ta chỉ cần để ý.

Vì sự nghiệp 1 năm, trồng lúa.
Vì sự nghiệp 10 năm, trồng cây.
Vì sự nghiệp 100 năm, trồng người.

– Quản Trọng

Dẫn nhập

Người ta nói rằng chỉ bằng cách thấu hiểu quá khứ thật sự của Trái đất chúng ta thì mới hy vọng tìm thấy chìa khóa tối cần để thấu hiểu tương lai của nó và rồi mới hiểu được chính mình. Những quan niệm như vậy luôn khiến cho loài người suy nghĩ về chính mình, về hành tinh của chúng ta, về các vì sao, về vũ trụ, và hơn nữa, phần lớn những tư tưởng này lúc nào cũng trở lại những suy tư về quá khứ và bản chất của Thượng Đế.

Loài người luôn tự hỏi những điều như vậy, kể từ buổi bình minh của lịch sử đã được ghi chép lại có vô số những câu chuyện và huyền thoại khiến vấn đề đi xa hơn: Những câu chuyện thần thoại từ xa xưa có những gợi ý khác, về những nền văn minh cổ xưa hơn nhiều nền văn minh của chúng ta trong thế kỷ 21, đã từng tồn tại trong những vùng đất bí ẩn, một số trong những vùng đất đó đã biến mất trong lòng các đại dương từ lâu. Trong các câu chuyện cổ xưa chúng ta đọc được những ghi chép kỳ lạ và trêu ngươi về những công nghệ chưa được biết đến và rất lạ lùng, câu chuyện về các vị thần cổ đại, tàu bay và những kẻ thù xa xưa gây ra những cuộc chiến tranh lớn, các cuộc chiến nổ ra với các vũ khí tàn khốc dị thường.

Qua nhiều năm, nhiều học giả đã cố gắng xua tan những câu chuyện này như thể chúng là lời đồn thổi và chuyện hoang đường kỳ khôi, xong, vẫn còn những câu chuyện tồn tại dai dằng và trong một sự củng cố đáng ngại một cách lạ lùng, chúng ta tìm thấy rải rác trên khắp Trái Đất, nhiều cấu trúc bí ẩn vô cùng cổ xưa có nguồn gốc không rõ và thậm chí có những điều còn kỳ quái hơn.

Các nhà khảo cổ học và các nhà thám hiểm đã khám phá các kim tự tháp bí ẩn, các thành phố bằng đá cẩm thạch và những cấu trúc tuyệt vời đòi hỏi độ khó và phức tạp cao. Nhiều trong số những cấu trúc này được xây theo những cách mà chúng ta tuyệt đối không biết và thậm chí còn thách thức trình độ chuyên môn kỹ thuật hiện nay của chúng ta.

Làm sao họ đã đạt được điều đó? Ai xây dựng chúng và mục đích của họ là gì? Có phải tất cả chúng đều chia sẽ một mối liên kết chung hay không và nếu như vậy thì đó là gì? Những tạo tác phi lý và lạ lùng được tạo ra bởi những kỹ thuật bí ẩn không rõ đã dẹp toan không thể chối từ những trình bày của giới hàn lâm về lịch sử chúng ta cũng đã được tìm thấy ở những nơi chúng đơn giản không có chỗ để tồn tại, và có những hòn đá Stele gây tò mò và các bức tranh hang động cũng miêu tả những cảnh dường như không thể từ quá khứ xa xưa của chúng ta.

Quá nhiều những đồ vật loại này giờ đã được khôi phục, từ nhiều nơi, rằng chúng không còn có thể đơn giản bị phân loại là các món đồ dị thường và đáng bỏ đi hay ‘lạ lùng’. Những năm gần đây có một cơn bão thực sự của các cây viết, gần như là bão hòa, cảnh báo rằng thời điểm thảm khốc đang đến, Chiến tranh Toàn cầu, sự biến đổi trái đất ồ ạt, Armageddon (Trận chiến đấu quyết liệt cuối cùng), sự hoàn bị của các lời tiên tri đen tối về ngày tận số đã được tiên đoán từ lâu sẽ sớm ập xuống thế giới của chúng ta. Hãy đối mặt với nó, luôn thật dễ dàng lợi dụng ngày tận thế để kiếm tiền; nó đã được thực hiện kể từ khi loài người sống trong các cộng đồng có tổ chức và luôn có ai đó sẽ sẵn lòng lắng nghe. Nhưng liệu có bất kỳ bằng chứng xác thực nào cho những công bố như vậy và nó sẽ có hình thức gì?

Trong những năm gần đây, những khám phá mới đáng ngạc nhiên đã được thực hiện và những bằng chứng mới đã được khai quật có thể giúp chúng ta trả lời nhiều các câu đố như thế này hay những câu đố còn sâu sắc hơn và có thể thắp lên ánh sáng vô cùng cần thiết để chiếu sáng nhiều giả thuyết khác. Các bằng chứng mà giờ đây cuối cùng có thể khiến chúng ta điều chỉnh lại tư duy và suy nghĩ lại một cách triệt để con đường chúng ta đã nhìn nhận trái đất, lịch sử của chúng ta và cuối cùng, tương lai của chúng ta. Thông tin càng quan trọng cho nhân loại càng bức thiết, nhưng trong những hành động hầu như không thể hiểu được của sự vô trách nhiệm, hầu hết là vậy, bị lờ đi bởi Chính phủ và giới hàn lâm trên khắp thế giới.

Những lập luận và kết luận trong cuốn sách này là kết quả thu nhặt suốt 25 năm điều tra và nghiên cứu. Nhiều lập luận được đưa ra ở đây không mới, tuy các khám phá mới dù nhỏ, đôi khi có thể hé lộ một điều quan trọng mới và thêm vào một mối liên quan đến các lý thuyết cũ. Thêm nữa để nhìn một bức tranh toàn diện hơn, nhiều mảnh nhỏ của trò chơi ghép hình trước tiên phải được đặt đúng chỗ.

Một trong những mục đích của sách là để chứng minh rằng trong thực tế có một số luợng lớn các bằng chứng, nhiều trong số đó với cái nhìn đầy đủ, chứng minh vượt xa bất kỳ cái bóng của sự nghi ngờ rằng thật sự có một nền văn minh tiên tiến đã tồn tại trên hành tinh này trong thời cổ đại, các vết tích của nền văn minh đó có thể tìm được khắp nơi. Thậm chí có những dấu vết trêu ngươi hơn nữa, một cái gì đó mà họ có thể đã để lại cho chúng ta để giúp chúng ta giải mã thông tin vũ trụ mà họ coi là quan trọng.

Cuốn sách này sẽ chứng minh rằng tất cả các truyền thuyết và nhiều khám phá gần đây trong hầu hết các lĩnh vực khoa học đã đưa ra các bằng chứng không thể chối cãi rằng lịch sử của chúng ta không chỉ đơn giản là những gì chúng ta đang bị dẫn dụ để tin; và không chỉ vậy, xong “Các thế lực đang tồn tại” đều đã biết hết những thông tin này nhưng lại rõ ràng hoàn toàn từ chối cho phép chúng được công bố rộng rãi.

Tác phẩm này muốn trình bày những bằng chứng không thể chối cãi của lịch sử mà phần lớn xã hội bị cấm kị không cho thấy. Sau đó chúng ta sẽ kiểm tra những ngụ ý mà sự tồn tại của nó nắm giữ quá khứ của chúng ta, hiện tại của chúng ta, và tương lai của chúng ta – Quả thực, cho tất cả chúng ta.

Chín mươi phần trăm các cuộc chiến tranh nổ ra trong 2000 năm qua đã được tiến hành theo các tôn giáo và cội rễ của tất cả các tôn giáo đều xuất phát từ chung một nguồn. Người ta nói rằng nếu tất cả nhân loại đã thực sự được giáo dục trong một nguồn duy nhất của tất cả các tôn giáo và trong bản chất thật sự của thế giới và mối liên hệ giữa loài người với bản chất đó thì sẽ không bao giờ có những cuộc chiến tranh nổ ra theo các giáo lý được mô tả trong sách. Thời cổ xưa, chúng ta sẽ thấy, không có tôn giáo như bây giờ, nhưng thay vào đó là những điều được mô tả như những trí tuệ sâu sắc về thực tại, khoa học và tôn giáo cả hai cả đã được kết hợp thành một lối sống.

Giáo dục là nguồn tài nguyên thiên nhiên to lớn nhất của nhân loại. Chỉ thông qua một nền giáo dục toàn diện loài người mới có thể thật sự đảm bảo một tương lai hài hoà và cân bằng, và trong một thế giới như của chúng ta, giáo dục nên được miễn phí và bắt buộc. Với một nền giáo dục mở đúng đắn mọi thứ khác sẽ đi vào đúng vị trí của nó.

Các viện học thuật mà chúng ta đã thiết lập trong thực tế là một bất lợi lớn cho việc theo đuổi việc học đích thực và sự phân phối kiến thức hiện nay được dựa trên khả năng kinh tế của từng cá nhân và cuối cùng chỉ có thể dẫn đến sự sụp đổ của xã hội, thậm chí chúng ta bây giờ cũng đã bắt đầu được chứng kiến nó đang xảy ra trên khắp đường phố. Tuy nhiên ngay cả với thực trạng này, giáo dục vẫn luôn là một trong những khoản chi phí thấp nhất trong ngân sách của bất kỳ quốc gia nào.

Giáo dục và kiến thức không nên là tài sản của một nhóm ưu tú tham lam tích trữ của cải của nó, mà nên là một thành lập mở rộng và tự do được thiết kế cho lợi ích và sự phát triển của toàn bộ loài người.

Vật thể trong hình này đã được tìm thấy vào năm 1898 trong một ngôi mộ tại Saqquara, Ai Cập và sau đó đã được giám định độ tuổi vào khoảng 200 năm trước công nguyên. Ngày người ta khám phá ra nó, máy bay chưa được biết đến, nên nó đã được đặt tên là “con chim gỗ” và đã được cất trong tủ dưới kho của viện bảo tàng Cairo.

Nó đã được tái khám phá bởi Tiến sĩ Khalil Messiha, một chuyên gia nghiên cứu

 các vật thể được làm bởi cổ nhân. Khám phá này quan trọng đến nỗi chính phủ Ai Cập đã triệu tập một hội đồng đặc biệt tập hợp những nhà khoa học hàng đầu để khảo sát nó.

Để làm sáng tỏ những lý do dẫn đến quyết định thành lập hội đồng, gần như chưa từng có trong lĩnh vực khảo cổ học, chúng ta hãy xem xét một số khía cạnh của mô hình. Mô hình này có tỷ lệ chính xác của một hình thức rất tiên tiến của “tàu lượn đẩy” (pusher-glider). Đây là loại tàu lượn sẽ ở lại trong khoảng không gần như tự mình nó – thậm chí là một động cơ rất nhỏ sẽ giữ cho nó đi ở tốc độ thấp, thấp nhất là 70 – 105 km/h, trong khi nó có thể mang một tải trọng rất lớn. Khả năng này phụ thuộc vào hình dạng kỳ lạ của đôi cánh và tỷ lệ của chúng. Các đỉnh của đôi cánh hướng xuống, một dạng cánh “Nhị Diện Nghịch” (reverse dihedral) như nó được gọi, là đặc điểm đằng sau khả năng này. Một loại tương tự của dạng cánh uốn cong đã được triển khai trên máy bay Concorde (máy bay chở khách siêu thanh thương mại thành công nhất từng hoạt động), cho phép một độ nâng tối đa mà không làm mất đi tốc độ của nó.

Trong bối cảnh đó, nó có vẻ khó tin rằng có một ai đó, hơn 2.000 năm trước đây, vì bất cứ lý do gì, đã phát minh ra một mô hình của một thiết bị bay với các tính năng cao cấp, đòi hỏi kiến thức khá sâu rộng về khí động học. Không có gì đã được biết đến như là máy bay trong thời gian này, các nhà khảo cổ học và sử học đã nói với chúng ta như vậy. Nhưng trường hợp này có vẻ là một ngoại lệ, tồn tại ngay trong lòng các mô hình cứng nhắc và thiếu sáng tạo của nền khoa học đương đại. Cần phải nhắc lại rằng ai cũng biết là người Ai Cập họ luôn tạo ra những mô hình với tỉ lệ thu nhỏ trước khi thực hiện một dự án hay công trình nào.

________

LX chuyển dịch

http://www.world-mysteries.com/sar_7.htm

Nikola Tesla đã biết trước có một loại hạt có vận tốc nhanh hơn ánh sáng cách đây 80 năm.

“Tất cả những cuộc tra cứu của tôi đều chỉ tới một kết luận rằng chúng là những hạt rất nhỏ, mỗi hạt đều mang điện tích cực nhỏ mà chúng ta gọi nó là neutrons. Chúng di chuyển với vận tốc khủng khiếp, nhanh hơn cả vận tốc ánh sáng.” – Nikola Tesla

Bông Hoa Sự Sống nắm giữ một bí mật mà qua đó người ta có thể khám phá ra các chiều mẫu (pattern) quan trọng và thiêng liêng nhất trong vũ trụ. Đây là nguồn gốc của tất cả những gì tồn tại, nó được gọi là Quả Sự Sống (Fruit of Life). Nó chứa 13 hệ thống thông tin. Mỗi hệ thống giải thích một khía cạnh khác nhau của thực tại. Vì vậy, các hệ thống này có thể cho phép chúng ta truy cập vào tất cả mọi thứ khác nhau, từ cơ thể con người đến các thiên hà. Trong hệ thống đầu tiên, ví dụ, nó có thể tạo ra bất kỳ cấu trúc phân tử và cấu trúc tế bào sống nào đang tồn tại trong vũ trụ. Nói ngắn gọn là tất cả mọi sinh vật sống.

Nếu bạn đặt lên một tấm bản đồ (sau khi có được một tỉ lệ chính xác) với một Bông Hoa Sự Sống đầy đủ, tất cả các địa điểm thiêng liêng, những tảng đá đứng khổng lồ, v.v, …, sẽ lọt ngay vào trung tâm sáu điểm.

Hạt Giống Sự Sống (The Seed of Life)

Hạt Giống Sự Sống được tạo ra từ 7 vòng tròn cân đối đan xen vào nhau

Hạt Giống Sự Sống là một biểu tượng miêu tả “7 ngày tạo dựng trời đất” mà Thiên Chúa trong Kitô Giáo đã tạo ra sự sống [Sáng Thế Kí – Genesis 2:2-3, Xuất Hành – Exodus 23:12, 31:16-17, Isaiah 56:6-8.]

Bước đầu tiên để tạo ra Hạt Giống Sự Sống (hay Bông Hoa Sự Sống) bắt đầu với một vòng tròn (trong 2D) hay một khối tròn (trong 3D).

Theo một số tôn giáo, bước đầu tiên để tạo ra Hạt Giống Sự Sống là một hình bát diện (8 mặt – octahedron) bởi một Đấng Sáng Tạo thiêng liêng (hay “Trời”, “Chúa”, “Thượng Đế”)

Bước tiếp theo hình bát diện này sẽ xoay quanh trục của nó. Như vậy, một khối tròn sẽ được hình thành.

  

“Bước đầu tiên” không nên bị nhầm lẫn với “ngày đầu tiên”, ngày đầu của sáng thế.

Ngày đầu tiên được xem là sự hình thành của Vesica Piscis (2 vòng tròn nối nhau – nghĩa đen tiếng Latin là Bàng Quang Cá). Sau đó là sự hình thành của Kiềng 3 Chân Sự Sống (Tripod of Life) trong ngày thứ hai. Cứ tiếp theo mỗi ngày có một khối tròn được thêm vào cho tới khi tất cả bảy khối tròn tạo ra Hạt Giống Sự Sống trong ngày thứ sáu của Sáng Thế. Ngày thứ bảy là ngày nghỉ ngơi, được biết đến như là ngày Sa Bát (Sabbath, hay Shabbat)

Trứng Sự Sống (The Egg of Life)

Sau khi Hạt Giống Sự Sống được hình thành, chuyển động xoắn đó vẫn tiếp tục, tạo nên một cấu trúc khác được biết đến là Trứng Sự Sống (The Egg of Life)

Cấu trúc này hình thành nền tảng cho âm nhạc, như khoảng cách giữa các khối tròn giống hệt khoảng cách giữa các âm (tones) và các bán âm (half tones) trong âm nhạc. Nó cũng giống hệt các cấu trúc tế bào của sự phân chia phôi thứ ba (tế bào đầu tiên phân chia thành hai tế bào, sau đó bốn tế bào sau đó đến tám). Vì vậy, cấu trúc này khi nó được phát triển hơn nữa, tạo ra cơ thể con người và tất cả các hệ thống năng lượng bao gồm các hệ thống được sử dụng để tạo ra Merkaba. Nếu chúng ta tiếp tục tạo ra các khối tròn nhiều hơn và nhiều hơn nữa, chúng ta sẽ kết thúc với một cấu trúc được gọi là Bông Hoa Sự Sống.

Bông Hoa Sự Sống

Bông hoa Sự Sống là tên gọi hiện đại được đặt cho một mô hình hình học bao gồm nhiều vòng tròn chồng lên nhau có khoảng cách đều nhau. Chúng được sắp xếp để tạo thành một mô hình giống như một bông hoa có tính đối xứng gấp sáu lần. Dạng phổ biến nhất của “Bông Hoa Sự Sống” là mô hình lục giác (nơi tâm của mỗi vòng tròn được nằm trên chu vi của 6 vòng tròn xung quanh có cùng đường kính), tạo thành 19 vòng tròn đầy đủ và 36 phần vòng cung, nằm gọn trong một vòng tròn lớn.

Nó được coi là một là một biểu tượng của hình học thiêng liêng, chứa đựng các giá trị tôn giáo cổ đại. Nó miêu tả các hình thức cơ bản của không gian và thời gian. Theo nghĩa này, nó là một biểu hiện hình ảnh của những kết nối sự sống thêu dệt qua tất cả chúng sinh, và nó được cho là chứa một loại Hồ Sơ Akashic (Akashic Record) của các thông tin cơ bản của tất cả các sinh vật sống.

“Bông Hoa Sự Sống” có thể được tìm thấy trong tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới. Nó chứa các chiều mẫu sáng tạo (patterns of creation) khi chúng bắt đầu trồi hiện lên từ “Đại Hư Không”. Mọi thứ đã được tạo ra từ tư tưởng của Đấng Sáng Tạo.

Trong thế kỷ 13, một nhóm Cabalist (người theo đạo Kabbalah) từ Pháp đã thành công, thông qua phân tích hình học, trong việc chia toàn bộ bảng chữ cái tiếng Do Thái thành một trật tự bằng cách sử dụng Hạt Giống Sự Sống. Bảng chữ cái này tương tự một cách đáng kể như của nhà hiền triết tôn giáo Rashi, người viết bài bình luận của ông về Cựu Ước vào thời gian đó tại Pháp.

Bông Hoa Sự Sống nắm giữ một bí mật mà qua đó người ta có thể khám phá ra các chiều mẫu (pattern) quan trọng và thiêng liêng nhất trong vũ trụ. Đây là nguồn gốc của tất cả những gì tồn tại, nó được gọi là Quả Sự Sống (Fruit of Life). Nó chứa 13 hệ thống thông tin. Mỗi hệ thống giải thích một khía cạnh khác nhau của thực tại. Vì vậy, các hệ thống này có thể cho phép chúng ta truy cập vào tất cả mọi thứ khác nhau, từ cơ thể con người đến các thiên hà. Trong hệ thống đầu tiên, ví dụ, nó có thể tạo ra bất kỳ cấu trúc phân tử và cấu trúc tế bào sống nào đang tồn tại trong vũ trụ. Nói ngắn gọn là tất cả mọi sinh vật sống.


Có rất nhiều niềm tin tâm linh gắn liền với Bông Hoa Sự Sống, ví dụ như, những mô tả của các Khối Đa Đồng Giác (Platonic Solids) được tìm thấy trong biểu tượng của Khối Thập Tam Cầu (Metatron’s Cube) (mô hình với 13 vòng tròn với các đường thẳng liên kết từ tâm mỗi vòng tròn), mà có thể đã được bắt nguồn từ các Bông Hoa Sự Sống. Các Khối Đa Đồng Giác này là những dạng hình học được nói rằng chúng hoạt động như một khuôn mẫu mà từ nó mọi sự sống triển nở .

Trái Sự Sống

Biểu tượng “Trái Sự Sống” gồm có 13 vòng tròn được lấy từ mô hình Bông Hoa Sự Sống.

Trái Sự Sống được cho là một bản thiết kế của vũ trụ, chứa đựng nền tảng sở cho các cấu trúc của mỗi nguyên tử, cấu trúc phân tử, dạng sự sống, và tất cả mọi thứ tồn tại. Nó chứa đựng nền tảng hình học để phác thảo ra Khối Thập Tam Cầu, và mang ra các Khối Đa Đồng Giác. Nếu tâm của mỗi vòng tròn được coi là một “nút”, và mỗi nút được kết nối với mỗi nút khác bằng một đường thẳng duy nhất, tổng cộng 78 đường thẳng được tạo ra, tạo thành một loại hình khối (Khối Thập Tam Cầu).

Cây Sự Sống (The Tree of Life)

Biểu tượng Cây Sự Sống có thể được bắt nguồn từ Bông Hoa Sự Sống. Cây Sự Sống là một khái niệm, một ẩn dụ về sự đồng nguồn (common descent) và là một chủ đề trong nhiều ngành thần học và triết học khác nhau trên thế giới. Điều này trong lịch sử đã được áp dụng qua bởi một số Kitô hữu, người Do Thái, Hermes gia (Hermeticists) , và Mạc sĩ (Pagans). Cùng với Hạt Giống Sự Sống, nó được cho là một phần của hình học song song với chu kỳ của cây ăn trái. Mối quan hệ này đã được ngụ ý khi hai mô hình này được chồng lên nhau.


Cây Sự Sống được công nhận rộng rãi như là một khái niệm trong Đạo Kabbalah, được sử dụng để hiểu được bản chất của Trời và cách thức mà trong đó Trời đã tạo ra thế giới từ hư không. Đạo hữu Kabbalah phát triển khái niệm này thành một mô hình thực tại đầy đủ, bằng cách sử dụng hình ảnh cái cây để miêu tả một “bản đồ” của sự sáng tạo. Cây Sự Sống đã được gọi là “vũ trụ học” của đạo Kabbalah. Nhiều người tin rằng Cây Sự Sống của đạo Kabbalah tương ứng với Cây Sự Sống đã đề cập trong Sáng Thế Ký chương 2 câu 9.

Mạng Lưới Thế Giới: Cái vô hình trở nên hữu hình.

Một phần của mạng lưới thế giới, vô hình bao trùm hành tinh. Mạng Lưới được dựa trên toàn bộ Bông Hoa Sự Sống và hình lục giác / lục đỉnh (hexagon/hexagram). Đường kính của vòng tròn đầu tiên được tính bằng cách vẽ một đường từ Orkney tới Stonehenge (tình cờ đường thẳng này chạy ngang nhà nguyện Rosslyn mà là chính xác là ở giữa, đây có thể chính là Đường Hoa Hồng (Rose Line) thật sự. Tất cả địa điểm cổ đại của châu Âu (những vòng tròn bằng đá tượng trưng cho hoa) có thể được tìm thấy nằm trên một trong những đường này. Mạng Lưới cũng liên kết tất cả đại điểm cổ đại lại với nhau. Nhiều trong số các địa điểm thiêng liêng lâu đời nhất nằm nằm trung tâm của sáu điểm.

Bằng Chứng về  Bông Hoa Sự Sống được phát hiện khắp nơi trên thế giới

Stonehenge

(Flower of Life – Thổ Nhĩ Kỳ)

Flower of Life – Amistar, Ấn Độ

Flower of Life – Amistar, Ấn Độ(lại gần)

được tìm thấy trên một số cột trụ trong “Osireion” tại Abydos ở Ai Cập

Thượng Hải, Trung Quốc

Bia mộ các Hiệp Sĩ Đền Thánh trong nhà thờ Thánh Magnus tại Kirkwall

(Bông Hoa Sự Sống trong các tài liệu của Leonardo da Vinci)

[LX Chuyển Dịch]

Nguồn:

Wikipedia

http://blog.world-mysteries.com/science/the-flower-of-life/

http://www.world-mysteries.com/sar_sage1.htm

Một người chỉ có thể kiểm soát 7 chakras của mình khi tinh tấn hết tất cả 7 bài học sau đây.

LX 1: Những bài học liên quan đến thế giới vật chất…. Những nhu cầu sinh sống căn bản nhất như ăn uống, ngủ nghỉ. Ngăn trở bởi sự sợ hãi.

LX 2: Những bài học liên quan đến dục vọng. Ngăn trở bởi lòng tham.

LX 3: Những bài học về ý chí. Ngăn trở bởi mặc cảm.

LX 4: Những bài học về tình yêu, sự tha thứ. Ngăn trở bởi u sầu.

LX 5: Những bài học về khả năng giao tiếp. Ngăn trở bởi dối trá.

LX 6: Những bài học về trực giác, trí tuệ. Ngăn trở bởi bản ngã.

LX 7: Những bài học về tâm linh, tâm thức. Ngăn trở bởi những ràng buộc trần gian.